Vừa qua, trong bối cảnh thị trường bất động sản trong nước phải đối mặt với nhiều khó khăn từ dịch bệnh, Bộ Xây dựng đã đề xuất và trình Thủ tướng Chính phủ cho phép tổ chức, cá nhân nước ngoài được mua và sở hữu các bất động sản (BĐS) du lịch tại Việt Nam. Động thái này thể hiện nỗ lực và sự đồng hành của Nhà nước để cùng doanh nghiệp vượt qua giai đoạn khó khăn chung.
Theo Tiến sĩ Sử Ngọc Khương, Giám đốc cấp cao, Savills Việt Nam, đề xuất của Bộ Xây dựng về việc tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân nước ngoài được mua và sở hữu các bất động sản du lịch tại Việt Nam là việc nên làm. Với những ưu đãi đặc biệt của thiên nhiên như rừng vàng biển bạc, hệ thống giao thông ngày càng cải thiện, chính sách đầu tư thông thoáng, Việt Nam đang có những lợi thế riêng so với các nước trong khu vực về thu hút nguồn vốn cho ngành du lịch và phân khúc đầu tư bất động sản du lịch.
Theo Luật kinh doanh bất động sản chính thức có hiệu lực từ ngày 1/7/2015, đối tượng được sở hữu nhà ở tại Việt Nam đã được mở rộng, cho doanh nghiệp nước ngoài đầu tư xây dựng nhà ở, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; chi nhánh, văn phòng đại diện của doanh nghiệp nước ngoài; quỹ đầu tư nước ngoài và chi nhánh ngân hàng nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam. Với việc nới lỏng thêm chính sách cho phép những đối tượng này mua bán và sở hữu bất động sản du lịch, ông Khương cho rằng đây là việc nên làm. Xét về mặt địa lý, Việt Nam có thế mạnh đường bờ biển dài 2500km. Dọc 63 tỉnh thành của Việt Nam có hơn một nửa gắn liền với biển, do đó, tiềm năng du lịch, cho thuê, nghỉ dưỡng rất lớn và cần được khai thác triệt để. Việc bán bất động sản cho nhà đầu tư nước ngoài cũng là một hình thức xuất khẩu bất động sản tại chỗ, người nước ngoài sở hữu căn hộ du lịch hay căn nhà tại Việt Nam thì tài sản vẫn nằm ở Việt Nam.
Không những thế, việc sở hữu bất động sản tại Việt Nam còn tăng thêm chi tiêu tiêu dùng, dòng tiền ngoại hối đổ về các lĩnh vực kinh tế khác như du lịch, dịch vụ, tài chính. Trên thực tế, xu thế về việc nhận nguồn đầu tư từ nước ngoài cho các sản phẩm du lịch cũng đã và đang được triển khai khá hiệu quả ở các nước lân cận trong khu vực như Thái Lan, Singapore…
Có ba điểm then chốt để đảm bảo việc hiện thực hóa chủ trương này của Nhà nước trong việc khuyến khích người nước ngoài đầu tư vào bất động sản du lịch. Thứ nhất, đó là sự phát triển và đồng bộ của bản thân ngành du lịch tại Việt Nam. Ngành du lịch cần phải phát triển theo hướng đa dạng, hấp dẫn để khi nhà đầu tư đổ tiền vào họ thấy được rõ tiềm năng, lợi nhuận bởi nhà đầu tư chỉ quan tâm đến lợi nhuận. Việt Nam phải chứng tỏ được những lợi thế du lịch của mình một cách triệt để.
Vấn đề thứ hai là về giấy tờ thủ tục pháp lý. Thủ tục pháp lý thuận lợi sẽ gỡ bỏ được những rào cản, cho phép các dự án bất động sản du lich được thực thi, tạo nên môi trường đầu tư thông thoáng, từ đó thu hút không chỉ bất động sản nhà ở mà còn là nguồn đầu tư nước ngoài vào các loại hình dịch vụ, kinh doanh, sản xuất…
Vấn đề cuối cùng nhưng cũng không kém phần quan trọng, đó chính là việc đảm bảo yếu tố an ninh quốc phòng trong việc sắp xếp các dự án này ở những vị trí không gây tác động đến an ninh quốc phòng như gần các căn cứ quân sự, khu vực chính trị…